Lớp vỏ sâu của Trái Đất Nhiệt_dịch

Nhiệt dịch cũng đề cập đến sự vận chuyển và tuần hoàn của nước ở dưới sâu trong vỏ Trái Đất, thường từ các khu vực có đá nóng đến các khu vực có đá nguội hơn. Nguyên nhân của sự đối lưu này có thể là:

  • Sự xâm nhập của macma vào lớp vỏ.
  • Nhiệt sinh ra do bức xạ từ các khối granit nguội đi
  • Nhiệt từ quyển manti
  • Áp suất thủy lực của các dãy núi, ví dụ bồn địa Đại Tự lưu
  • Mất nước của đá biến chất
  • Mất nước của các trầm tích bị chôn vùi sâu

Luân chuyển nhiệt dịch, đặc biệt trong lớp vỏ sâu của Trái Đất, là nguyên nhân cơ bản của sự hình thành trầm tích khoáng vật và là nền tảng của hầu hết các học thuyết về hình thành quặng.

Mỏ quặng nhiệt dịch

Trong suốt những năm đầu của thập niên 1900, nhiều nhà địa chất khác nhau đã tiến hành phân loại các mỏ quặng nhiệt dịch, được xem là được tạo ra từ các dung dịch nước dâng lên phía trên mặt đất. Waldemar Lindgren đã đưa ra một phân loại dựa trên các điều kiện nhiệt độ và áp suất suy giảm như đã diễn giải của các chất lưu tích tụ. Các thuật ngữ của ông đề xuất như: nhiệt dịch sâu (hypothermal), nhiệt dịch trung (mesothermal), nhiệt dịch nông (epithermal) và nhiệt dịch xa (teleothermal) là dựa trên sự suy giảm nhiệt độ và gia tăng khoảng cách từ nguồn dưới sâu[2]. Chỉ có thủy nhiệt nông là được sử dụng trong các công trình ngiên cứu gần đây. Tu sửa lại của John Guilbert năm 1985 đối với hệ thống của Lindgren cho các tích tụ thủy nhiệt bao gồm:[3]

  • Các nhiệt dịch dâng lên trên mặt đất, như macma hay khí tượng
    • Pocfia đồng và các tích tụ khác, 200 - 800 °C, áp suất trung bình
    • Hỏa thành biến chất, 300 - 800 °C, áp suất thấp - trung bình
    • Mạch mỏ Cordillera, độ sâu trung bình đến nông
    • Nhiệt dịch nông, nông đến trung bình, 50 - 300 °C, áp suất thấp
  • Các dung dịch khí tượng nung nóng luân chuyển
  • Nước biển nung nóng luân chuyển